Nguyên tắc lập bài vị ông bà tổ tiên
Nguyên tắc lập bài vị
1. Bài vị thường được làm bằng gỗ Thị
Do ngày xưa người ta gọi quê hương là Tử Lý (Tử có nghĩa là cây Thị) dựa theo truyền thuyết Từ Thức sau thời kì gặp tiên trở về quê hương thì thấy mọi sự đã thay đổi nhưng vẫn nhận ra cây Thị trồng tại đất nhà mình.
2. Kích thước bài vị: thường rộng từ 3 đến 4 cm, cao từ 13 đến 21 cm.
3. Số chữ viết trên bài vị phải được ...a hết cho 4, hoặc ...a cho 4 còn dư 3 (không được dư 1 hoặc dư 2) theo cách đếm tuần tự 4 chữ: Quỷ - Khốc - Linh - Thính; nếu là người nam thì phải vào chữ Linh (dư 3), người .. phải vào chữ Thính (...a hết) là được.
4. Các nội dung phải có trong một bài vị: (viết bằng chữ Hán ...ều dọc từ trên xuống, từ phải qua trái):
Hàng chính giữa nêu: Vai vế của người được làm bài vị (như cha = hiển khảo; ông nội = tổ khảo; bà cố = tằng tổ tỷ; ông sơ = cao tổ khảo); tiếp đến là tước vị (nếu có); sau đó là tên (gồm tên húy = tên chính, tên tự, tên hiệu, tên thụy … nếu có). Nếu là bài vị mẹ hoặc bà thì ghi theo tước vị của cha, ông; sau đó ghi họ của ông + nguyên phối (hoặc thứ thất, kế thất, trắc thất…) phu nhân.
Hàng bên trái (từ trong nhìn ra) ghi ngày tháng năm sinh.
Hàng bên phải (từ trong nhìn ra) ghi tháng ngày năm mất.
rút cuộc là 3 chữ “... Linh vị”, cũng có khi ghi “Thần chủ” hoặc “Linh vị”.
5. Bài vị được lưu giữ 5 đời (ngũ đại mai thần chủ) kể từ người chủ cúng, đến đời thứ 6 được đem đốt hoặc thiên cư vào nhà thờ tộc họ để thờ chung.Thực ra hiện thời, khi có một người trong gia đình mất, đã có các sư hoặc các thầy cúng lo giúp việc làm bài vị, phòng thờ đẹp và tất nhiên những bài vị này đều viết bằng chữ Hán.
[img]....://dothotuongphatsd..../publish/thumbnail/9327/168x158xfull//upload/9327/20140416/1397641187513357633IMG_0533.JPG[/img]
Cách lập bài vị ông bà tiên sư ba má dựa theo nguyên tắc trên:
1. Ngày xưa, tổ tông ta học chữ Hán, nên ... bài vị
đồ thờ cúng bằng gỗ được viết bằng chữ Hán là đúng. Nhưng hiện tại, con cháu không còn học chữ Hán mà đang học chữ quốc ngữ, vậy phải viết bài vị theo chữ nào? Trong thực tiễn hiện giờ, hồ hết các gia đình đều nhờ đến các sư hoặc các thầy cúng làm bài vị khi có người mất, từ đó các bài vị cũng được viết bằng chữ Hán, dù cả người sống và người đã mất đều không biết một chút ti nào về những chữ Hán ghi trên bài vị này. Đó nghe đâu là một “thói quen”, chừng như vẫn còn đâu đó có nghĩ suy nếu bài vị không được viết bằng chữ Hán là “không nghiêm túc”, “không đẹp”, “không thật sự thương tiếc”; ngoại giả cũng có nơi cho rằng vì đã nhờ nên viết thế nào cũng được, chữ Hán hay chữ Việt không quan trọng mà quan yếu là ở tấm lòng; từ đó mà hết đời này sang đời khác, hết người này đến người khác đều được viết bài vị bằng chữ Hán.
Quan niệm của thánh sư ta xưa khi làm bài vị cho người đã mất là để tưởng nhớ và để thờ cúng, người đã mất sẽ hiện diện ở bài vị mỗi khi có cúng tế, nhà có nhiều bài vị (vì cúng đến 4 đời trên) thì khi cúng tế người nào, bài vị của người đó sẽ được đem đặt vào chính giữa bàn thờ, khi cúng xong mới đưa trở lại vị trí cũ. Quan niệm như thế là thích hợp với lúc bấy giờ, tổ sư ta đều học chữ Hán, người sống cũng như người đã mất nhìn vào bài vị cũng biết được bài vị là của người nào, của tiên sư nào, khi cúng tế vị nào thì biết mà đưa bài vị vào chính giữa, người đã mất cũng biết đâu là bài vị của mình để về hiện diện đúng chỗ, không phạm vào chỗ của tiên nhân khác. ngày nay, bài vị nên viết bằng chữ quốc ngữ cho dễ đọc dễ hiễu. Cũng không nên phân biệt chữ Hán Việt và chữ thuần Việt, vì có những chữ không có chữ thuần Việt, hoặc nếu có thì nghe không hay, không có ý kính trọng.